Ý nghĩa 5 sắc hoa dâng Đức Mẹ
Một vài ý nghĩa
nhỏ về năm sắc hoa mà chúng con chọn dể dâng kính Đức Mẹ. Mỗi sắc hoa tượng
trưng cho một nhân đức của Mẹ Maria. Hoa thì muôn sắc, nhân đức của Mẹ Thánh
thì muôn vàn. Chúng con, những đứa con bé nhỏ của Mẹ, cảm thấy 5 nhân đức sáng
ngời nhất của Mẹ Maria và cũng thiết thân nhất cho cuộc đời chúng con. Để tỏ
lòng tôn kính mến yêu Mẹ, chúng con chọn năm sắc hoa, mỗi sắc hoa tượng trưng
cho một điểm sáng ngời nhất nơi Mẹ Maria.
Hoa Trắng:
Đây là màu riêng
cho Mẹ Maria, Mẹ là người nữ duy nhất tinh khiết vẹn tuyền, vô nhiễm nguyên tội
và không tỳ vết tội lỗi. Tuổi thanh xuân của chúng con hôm nay gặp rất nhiều thử
thách về nhân đức cao quý này. Dâng lên Mẹ hoa trắng, chúng con muốn tôn vinh sự
trong trắng vẹn sạch của Mẹ và xin Mẹ giúp chúng con vượt thắng những mời mọc
quyến rũ của thế trần.
Hoa Vàng:
Màu vàng tượng
trưng lòng tin yêu, tín thác và cây trông của Đức Me. Ngài tuyệt đối xin vâng
trong mọi hoàn cảnh, từ xin vâng trong màu nhiệm Truyền Tin đến Khổ Nạn của con
Mẹ trên Thánh Giá. Dâng lên Mẹ Hoa Vàng chúng con ca ngợi sự tin tưởng tuyệ đối
của Mẹ vào Thiên Chúa và xin Ngài cho chúng con biết nhân ra và thực thi tiếng
Chúa gọi trong đời mình.
Hoa Tím:
Sắc hoa màu tím là sắc hoa của hy vọng, của niềm
mơ ước. Mẹ Maria đã sống niềm chờ đợi trong hy vọng vào Lời Hứa Cứu Độ của Cựu
Ước. Nhờ hy sinh, hãm mình, kỷ luật Mẹ Maria đã biến niềm mơ ước thành sự thật
và niềm hy vọng thành sự cứu rỗi. Chúng con dâng lên Mẹ Maria hoa tím để cảm tạ
Ngài vì những hoa trái của hy sinh mà Ngài đã mang tới cho nhân loại và xin Mẹ
giúp chúng con vượt thắng khuynh hướng của tuổi trẻ hôm nay là chỉ muốn được thỏa
mãn cho mình ngay ở đây và bây giờ.
Hoa Đỏ:
Màu đỏ tượng
trưng cho danh hiệu Đồng Công Cứu chuộc của Đức Mẹ. 30 năm tần tảo nuôi Chúa
Giêsu, 3 năm ngược xuôi theo con mình trên những con đường cát bụi sỏi đá đễ
rao truyền ơn Cứu Độ, Cảm nhận với Con Chúa từng làn roi, tùng mũi đinh như những
dao sắc thâu qua trái tim mình. Chúng con dâng lên Mẹ Maria hoa đỏ để cảm mến
những hy sinh của Ngài và xin Ngài cho chúng con sự can đảm cộng tác với ơn
Chúa cho chính phần rỗi của chúng con và của thế giới.
Hoa Xanh:
Màu xanh tượng
trưng cho sự thanh cao của tâm hồn. Như mây mưa không thể che khuất vừng trăng,
ngôi sao mai luôn tuyệt vời trên trời, Những đau khổ gian chuân không thể che
khuất sự thanh cao rạng ngời của Mẹ Maria. Chúng con dâng lên Mẹ Hoa Xanh để
chúc tụng, tuyên dương Mẹ và xin Ngài cho chúng con bảo trọng sự cao quý vai
trò làm con Thiên Chúa của chúng con.
Mùa Thường Niên
2
Mùa Thường Niên 2
bắt đầu từ Thứ Hai sau Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống (vào khoảng cuối Tháng 5 hay đầu
Tháng 6 Dương Lịch) cho tới Thứ Bảy Lễ Vọng của Chúa Nhât 1 Mùa Vọng (vào khoảng
cuối Tháng 11 hay đầu Tháng 12 Dương Lịch). Mầu sắc phụng vụ trong Mùa Thường
Niên 2 cũng là mầu xanh lá cây, mầu hi vọng. Mùa Thường Niên 2 kéo dài, nên người
tín hữu có thể sống lơ là, làm nhụt tinh thần. Vì thế Giáo Hội dùng mầu hi vọng,
để nhắc nhở người tín hữu giữ vững niềm hi vọng vào Chúa. Trong Mùa Thường Niên
2, Giáo Hội mừng lễ Chúa Ba Ngôi (Chúa Nhật sau Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần.
Hiện Xuống) Lễ
Mình Máu Thánh Chúa (Chúa Nhật sau Chúa Nhật Lễ Chúa ba Ngôi), Lễ Sinh Nhật
thánh Gioan tẩy giả (24-06), Lễ thánh Phêrô và Phaolô tồng đồ (29-06), Lễ Chúa
Hiển Dung (06-08), Lễ Đức Mẹ Lên Trời (15-08), Lễ Suy Tôn Thánh giá (14-09), Lễ
Các Thánh 01-11), Lễ Cầu cho Các Tín hữu đã qua đời (02-11), Lễ Cung Hiến Thánh
Đường Latêranô (09-11). Khi các ngày lễ trên đây nhằm vào ngày Chúa Nhật thì phụng
vụ lời Chúa của các lễ này thay thế phụng vụ lời Chúa ngày Chúa Nhật và mầu sắc
phụng vụ cũng đi theo mầu sắc phụng vụ của mỗi lễ. Xét về phương diện tâm lí học
thì người ta có khuynh hướng ‘quen quá hoá nhàm’. Do đó khi thấy những mầu sắc
khác nhau trong phụng vụ của các ngày lễ trên khác với mầu xanh của mùa thường
niên thì cũng có thể gây được sự chú ý và thay đổi trong tâm thức người tín hữu.
Có linh mục chánh xứ kia thường hay khuyến khích giáo dân, nhất là phái nữ bận
mầu áo theo mầu sắc phụng vụ của mỗi mùa phụng vụ hay mỗi ngày lễ để khơi dậy ý
thức về ý nghĩa mầu sắc phụng vụ trong
tâm thức người đi dự lễ.
Khoa Học Dẫn Đến THIÊN CHÚA
Tiến sĩ Phan Như
Ngọc, Giáo sư vật lý, bị nhồi nhét tà thuyết vô thần từ lúc sinh ra
và lớn lên trong lòng miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhân một chuyến công tác ở nước ngoài,
ông đã xin tị nạn và gia nhập Đạo Chúa.
Ông viết:
"Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết
các nhà khoa học vĩ đại mà tôi từng ngưỡng mộ, tin Kinh thánh?"
"Tính muôn
màu muôn vẻ của thiên nhiên, tính di truyền kỳ diệu: hạt giống nào sinh cây
trái đó, vẻ đẹp tuyệt vời của những nàng hoa, sự hài hòa và hoàn thiện của cơ
thể con người, sự hùng vĩ của bầu trời sao; tất cả những cái đó, cộng với những
ý kiến các vĩ nhân mà tôi hằng kính phục, chính là sự chứng minh tuyệt vời và
làm cho tôi tin rằng phải có Đấng Sáng Tạo.
Đó chính là Thượng Đế toàn năng, toàn tri, toàn trí và toàn tại."
Bác học Pasteur: "Càng nghiên cứu khoa học,
tôi càng tin vào Thượng Đế." ; "Mỉa mai cho lòng dạ con người, nghĩ rằng,
chết là hêt hoặc chết là trở về với hư vô."
Bác học
Becquerel: "Nhờ nghiên cứu khoa học đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đưc
tin."
Bác học Isaac
Newton, vì nhìn thấy sự kỳ diệu và trật tự của bầu trời, đã thốt lên: "Tôi
thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính." ; "Kinh Thánh có nhiều biểu hiện
chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách
đó."
Bác học
Bourgeois: "Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng
đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại,
khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và
bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng to hơn."
Bác học Duclaux:
"Nếu sự sống đầu tiên xuât hiện trên mặt đât do tình cờ, nơi mà (vũ trụ
này) mọi sự đều có luật, thì sự xuât hiện kia nó kỳ dị như hòn đá tự bò lên sườn
núi."
Bác học Albert
Einstein: "Khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là
què quặt."; "Tôi chưa hề gặp điều gì trong Khoa học của tôi mà lại đi
ngược với Tôn giáo."
Giáo sư Edwin
Carlson, nhà Sinh vật học Trường Đại Học Princeton, Hoa Kỳ: "Sự sống phát
xuất từ sự tình cờ, thì cũng giống như một quyển từ điển, xuất hiện do kết quả
của một vụ nổ xảy ra ở một nhà máy in."
Giáo sư James
Simpson, người phát minh ra phương pháp gây mê trong giải phẫu, khi được hỏi về
những phát minh của ông, đã trả lời: "Phát minh quan trọng nhất của đời
tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu."
Bác học Edison,
đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng tháp Eiffel: "Edison hêt sưc khâm phục
và ca ngợi tât cả kỹ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa."
Giáo sĩ Moreux,
giám đốc đài thiên văn Bourges: "Tôi liên lạc với các vị giám đốc thuộc
hêt mọi đài thiên văn trên thế giới, tât cả đều tin có Thiên Chúa."
Charles Nicolle,
người đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: "May mắn thay trong tôn giáo có những
bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó,
vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của
Thiên Chúa."
Alexis Carrel, tiến
sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon, đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng
kiến phép lạ nhãn tiền tại Lộ Đưc (Lourdes , France). Marie Ferrand, từ một cô gái sắp chêt, trở nên
lành mạnh tức khắc, ông nói: "Thật
là một chuyện không thể có nhưng có thực. Qủa là bât ngờ, một phép lạ mới xẩy
ra." Không dám tin ở mình. Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến
và cả hai đều xac nhận cô đã hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Thiên Chúa
giáo, trước khi về Nhà Cha trên trời.
Bác học Chevreul
(1786-1889): "Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy
công trình tạo dựng của Ngài".
Bác học Diderot:
"Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của
kẻ vô thần."
Bác học John
Eccles, người đoạt giải Nobel: "Tôi chấp nhận tât cả những lý thuyêt khoa
học, nhưng những lý thuyết này không giải thích một chút nào về sự kiện, làm thế
nào, tôi, một sinh vật biêt suy nghĩ, đang hiện hữu và có thể làm nhiều điều… Sự
sáng tạo linh hồn là một hành động thiêng liêng là điều khoa học không thể phủ
nhận được, nó hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của khoa học".
Ông nói thêm:
"Niềm tin của những người chủ trương duy vật chất đang hao mòn; họ không dẫn
chúng ta đến đâu cả. Thuyêt ‘khoa học duy vật’ đưa con người đến tuyệt vọng, trống
rỗng, vô giá trị. Giá trị thật là vấn đề
tâm linh, tình yêu thương, can đảm, bác ái".
Bác sĩ riêng của
Lenine, lúc 83 tuổi, ông xuât bản hai cuốn sách: "Sự bí mật và sự khôn
ngoan của thân xác (1958); và "Mầu nhiệm của sự sống" (1960). Ông nói: "Môn sinh vật học và môn phân
tích tâm lý, đã làm cho tôi trở nên một kẻ hữu thần."
Wernher Von Braun
(1917-1977) thám hiểm Mặt Trăng thành công năm 1967. Ông cùng 3 phi hành gia bạn
cắm cờ Hoa Kỳ và đặt ca vịnh trên cung trăng ngợi khen Đấng Tạo Hóa. Năm 1976
khi diễn thuyết tại Philadelphia, Bang Pennsylvania, Ông nói: "Sự bao la
huy hoàng của vũ trụ đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi tăng thêm.
Khoa học và đạo không mâu thuẫn nhưng là chị em ruột. Khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật,
trong khi đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa đã dựng nên vạn vật tôt đẹp lạ lùng. Đạo
không phải là di sản mà người đời sau hưởng thụ và bảo vệ. Nhưng đạo cũng như khoa học phải thăng tiến. Người tín hữu phải tìm hiểu đạo và nhà khoa học
phải khổ công nghiên cứu mới thành bac học."
Bác học T.
Termier: "Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biết
Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào, bao
giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyết điểm,
có cùng đich và rât phức tạp. Do đó,
hơn những người dốt nát, nhà khoa học dễ có ý hướng về một Đấng bât di bất dịch,
tự hữu, cần thiết, hoàn toàn và là Đấng duy nhât an bài mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo: khoa học dẫn đến
Thiên Chúa. Và cũng chính vì thế mà người
ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa."
A. Eynieu đã công
bố bản thống kê: trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19; 34 vị không biết lập
trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367
vị tin; như vậy là 92% các nhà bac học tin có Thiên Chúa.
Bác sĩ Dennert,
người Đức cũng tuyên bố kết qủa tìm tòi của ông để biết quan niệm tôn giáo của
300 nhà bác học, tìm hiểu trong những số lỗi lạc nhất thuộc 4 thế kỷ qua.
"38 vị tôi không rõ các ông quan niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng
dưng, 242 ông tin. Tức cũng 92% tin có Thiên Chúa."
Nhà bác học người
Mỹ, có ý mỉa mai và đánh giá những kẻ chủ trương vô thần như sau:
- Trong con người
có một số nước đủ giặt một cái khăn bàn.
- chứa chất săt,
đủ làm 7 cái đinh đóng móng ngựa.
- Có một số chất
vôi đủ quét một bức tường nhỏ.
- Đôt ra than, có
thể làm được 65 cây viêt chì.
- Chât phôt phát
đủ làm được hộp diêm.
- Và chất muối,
hai hoặc ba muỗng nhỏ.
Bán những thứ đó
được 95 xu, đó là giá trị của kẻ vô thần.
Kính tặng
những ai muốn tìm cho mình một đạo thật.
Đức Tin Lật Ngược
Ván Cờ
Sức mạnh niềm tin
là điều cần thiết cho cuộc sống, nhưng vì là thứ vô hình nên không phải ai cũng
thừa nhận nó. Và cho dù nó tồn tại hay không, bạn không thể phủ nhận sức mạnh của
niềm tin.
Vị giáo sư
và học trò.
Niềm tin là nguồn
năng lượng mạnh mẽ nhất trong việc tạo ra những điều tốt đẹp trong cuộc sống,
nó giúp chúng ta khơi nguồn những năng lực phong phú nhất ẩn sâu trong mỗi con
người, tạo ra và định hướng cho những nguồn năng lực ấy giúp chúng ta thưc hiện
những mục tiêu mong muốn.
Cuộc tranh luận
giữa vị giáo sư và học trò của mình về niềm tin nơi chúa Jesu sẽ cho chúng ta cảm
nhận rõ hơn về một phần thiết yếu trong cuộc sống:
Giáo sư: Con là một
người theo đạo Thiên Chúa Giáo đúng không?
Sinh viên: Dạ
đúng thưa giáo sư.
Giáo sư: Vậy con
có tin vào Chúa không?
Sinh viên: Tất
nhiên rồi thưa giáo sư.
Giáo sư: Chúa tốt
lành chứ?
Sinh viên: Chắc
chắn là như vậy.
Giáo sư: Chúa có
tất cả quyền lực không?
Sinh viên: Dạ có.
Giáo sư: Anh trai
tôi chết vì ung thư mặc dù anh ấy đã cầu nguyện với Chúa chữa lành cho anh ấy rất
nhiều. Hầu hết trong chúng ta ai cũng đã cố gắng giúp đỡ người khác khi họ đau ốm.
Nhưng Chúa thì không. Vậy cậu nói xem Chúa tốt lành như thế nào?
Giáo sư: Cậu
không thể trả lời phải không? Vậy chúng ta lại bắt đầu lại với câu hỏi : Chúa tốt
lành không?
Sinh viên: Dạ có.
Giáo sư: Quỷ
Satan có tốt lành không?
Sinh viên: Không.
Giáo sư: Vậy quỷ
Satan là đến từ đâu?
Sinh viên: Dạ, từ
…Chúa mà ra…
Giáo sư: Đúng rồi.
Con trai hãy nói cho ta biết, tội ác có tồn tại trên thế giới này không?
Sinh viên: Dạ có.
Giáo sư: Tội ác ở
khắp mọi nơi phải không? Và Chúa tạo nên tất cả mọi thứ, đúng không?
Sinh viên: Đúng!
Giáo sư: Vậy ai tạo
ra tội ác?
(Sinh viên không
trả lời)
Giáo sư: Vậy còn
bệnh tật? sự đồi bại? lòng thù hận? sự xấu xa? Tất cả những thứ kinh khủng đó vẫn
tồn tại trên thế giới chứ?
Sinh viên: Dạ
đúng, thưa giáo sư.
Giáo sư: Vậy, ai
tạo nên chúng?
(Sinh viên không
trả lời)
Giáo sư: Khoa học
nói rằng chúng ta có 5 giác quan để nhận định và quan sát thế giới xung quanh
ta. Hãy nói cho ta biết, con đã từng thấy Chúa chưa?
Sinh viên: Dạ
chưa.
Giáo sư: Nói cho
ta biết cậu đã từng nghe Chúa nói chưa?
Sinh viên: Chưa,
thưa giáo sư.
Giáo sư: Cậu đã từng
cảm nhận thấy Chúa, nếm được mùi vị của Chúa, ngửi được Chúa chưa? Cậu đã từng
bao giờ nhận thức được bằng bất cứ giác quan nào về Chúa chưa?
Sinh viên: Chưa
thưa giáo sư. E là con chưa cảm nhận được từ giác quan nào cả.
Giáo sư: Vậy cậu
còn tin vào Chúa không?
Sinh viên: Dạ có.
Giáo sư: Theo
kinh nghiệm, những thử nghiệm, những phương pháp chứng minh khác, khoa học nói
rằng Chúa không hề tồn tại. Con nói về điều này thế nào, con trai?
Sinh viên: Không
là gì cả. Con chỉ có niềm tin.
Giáo sư: Đúng rồi,
đức tin. Và đó là vấn đề mà khoa học gặp phải.
Sinh viên: Thưa
giáo sư, có tồn tại một thứ gọi là “nóng” không?
Giáo sư: Có!
Sinh viên: Và có
tồn tại thứ gọi là “lạnh” không?
Giáo sư: Có!
Sinh viên: Không
có, thưa giáo sư. Nó không hề có.
(Giảng đường bỗng
trở nên im lặng với câu trả lời bất ngờ của cậu sinh viên)
Sinh viên: Thưa
giáo sư, giáo sư có thể có rất nhiều thứ gọi là nóng, và còn có thể nóng hơn,
siêu nóng, cực kì nóng, nhiệt độ nóng trắng. Nhưng chúng ta không có bất cứ gì
gọi là lạnh. Chúng ta có thể đạt đến nhiệt độ dưới 0 đến âm 273,15ºC (độ không
tuyệt đối), nhưng chúng ta không thể đạt đến mức thấp hơn con số đó.
Không có bất cứ
thứ gì gọi là lạnh, lạnh là một từ ngữ chúng ta dùng để mô tả sự vắng mặt của
nóng. Chúng ta không thể đo lường được lạnh, lạnh đến đâu. Nóng là một loại
năng lượng, và lạnh không phải là mặt trái của nóng, thưa giáo sư, chỉ là sự vắng
mặt của nóng mà thôi.
(Giảng đường
thinh lặng với những giải thích của cậu sinh viên)
Ánh sáng- bóng tối,
lạnh – nóng.
Sinh viên: Còn về
bóng tối thì sao thưa giáo sư? Có thứ gì để gọi là “bóng tối” không?
Giáo sư: Có. Đêm
tối là gì, nếu nó không phải là bóng tối?
Sinh viên: Giáo
sư lại sai nữa rồi. Bóng tối là sự thiếu vắng của một thứ khác. Giáo sư có thể
có được ánh sáng yếu, ánh sáng trung bình, ánh sáng mạnh, ánh sáng chớp. Nhưng
nếu không có ánh sáng một cách thường xuyên, giáo sư sẽ chẳng có cái gì để gọi
là “bóng tối”. Trong thực thế, không có bóng tối, nếu có, giáo sư có thể làm
cho bóng tối trở nên tối hơn không thưa giáo sư?
Giáo sư: Vậy vấn
đề mà con đang muốn đề cập ở đây là gì, chàng thanh niên trẻ tuổi?
Sinh viên: Thưa
giáo sư, điều mà tôi muốn nói ở đây là tiền đề triết học của giáo sư có chỗ thiếu
sót.
Giáo sư: Thiếu
sót? Cậu có thể giải thích rõ hơn không?
Sinh viên: Thưa
giáo sư, giáo sư đang giải thích trên tiền đề của sự đối ngẫu 2 mặt. Giáo sư chỉ
rõ rằng có sự sống và có cái chết, có Chúa tốt và Chúa xấu. Giáo sư đang nhìn
vào khái niệm về Chúa chỉ như một tập hữu hạn, chỉ bằng một cái gì đó có thể đo
lường được. Thưa giáo sư, khoa học thậm chí không thể giải thích về một cách thức
con người suy nghĩ như thế nào.
Có thể là dùng những
tín hiệu về xung điện và từ ngữ gì đó, nhưng chúng ta không bao giờ thấy được,
nhưng bằng cách nào đấy chúng ta vẫn cũng có thể hiểu được người khác. Nếu
chúng ta xem xét về cái chết là đối lập với sự sống, nghĩa là đang phớt lờ đi sự
thật rằng cái chết không thể tồn tại như một thứ gì đó mà tồn tại hữu hình.
Sự chết không phải
là đối lập với sự sống, chỉ là sự vắng mặt của sự sống.
Điều này giải
thích rằng: bệnh tật, tội ác, tất cả những thứ kinh khủng trên thế giới này đều
không tồn tại, mà là vì chúng ta đang thiếu vắng đi 1 thứ, đó là tình yêu của 1
đấng tối cao nào đó.
Bây giờ giáo sư
hãy nói cho con biết, giáo sư có dạy cho sinh viên của mình rằng họ tiến hóa
như bây giờ từ loài khỉ không?
Giáo sư: Nếu như
cậu đang đề cập về quá trình tiến hóa tự nhiên thì dĩ nhiên là có.
Sinh viên: Đã bao
giờ giáo sư quan sát được quá trình tiến hóa bằng mắt thường chưa giáo sư?
(Giáo sư lắc đầu
và cười, bắt đầu nhận ra rằng vấn đề của cuộc tranh luận đang đi về đâu)
Sinh viên: Bởi vì
không ai có thể quan sát được quá trình tiến hóa trong công việc và càng không
thể chứng minh rằng quá trình này là một quá trình đang diễn ra. Vì thế thưa
giáo sư, có phải giáo sư không dạy bằng quan điểm cá nhân của giáo sư đúng
không? Giáo sư là một nhà khoa học hay chỉ là một người thuyết giáo suông dạy đời?
(Lớp học bỗng trở
nên ồn ào)
Sinh viên: Có ai
trong lớp học này đã từng nhìn thấy được bộ não của giáo sư chưa?
(Lớp học ồ lên những
tiếng cười lớn)
Sinh viên: Có ai
đó đã từng nghe về bộ não của giáo sư, cảm nhận được bộ não đó, chạm được nó,
hoặc ngửi được nó chưa? Không ai có mặt ở đây đã làm điều đó cả. Vì thế, theo
như quy luật được thiết lập bởi kinh nghiệm, sự thử nghiệm, các phương pháp chứng
minh, khoa học nói rằng giáo sư không có bộ não. Vậy chỉ bằng lòng kính trọng,
thì làm sao chúng tôi có thể tin những gì giáo sư dạy được, thưa giáo sư?
(Căn phòng im lặng,
giáo sư nhìn chằm vào cậu sinh viên, không đoán được cậu ấy đang nghĩ gì
Giáo sư: Tôi nghĩ
là cậu hãy cứ để những thứ đó cho niềm tin, cậu con trai ạ.
Sinh viên: Đúng
là thế đấy, thưa giáo sư….Chính xác! Sự kết nối giữa con người và Chúa đó là
“Niềm Tin“. Tất cả những điều đó giữ cho mọi thứ vẫn tiếp tục sống, tiếp tục
còn đó và phát triển.
Mong là tất cả
các bạn đã cảm nhận được cuộc đối thoại trên đây theo một cách thú vị. Và nếu
đúng như vậy, chắc chắn bạn cũng muốn bạn bè và đồng nghiệp của mình sẽ đọc được
mẩu chuyện này đúng không?
Hãy Chia sẻ thông
điệp này đến bạn bè để giúp họ trở nên hiểu biết hơn về Đức tin…
Dù cho bạn thấy
hay không thấy được nhưng nếu có một chiếc la bàn trong tâm, bạn sẽ không bị lạc
lối chốn nhân gian.
Nhân tiện, cậu
sinh viên trong câu chuyện trên đây chính là Albert Einstein – nhà khoa học vĩ
đại nhất thế kỷ 21, người phát minh học thuyết tương đối tạo ra bước ngoặt cho
khoa học đương đại.
Đăng nhận xét