Bài 1
TÌNH THẦY TRÒ CỦA SOCRATE VÀ
CÁC MÔN SINH

Mặt trời đã xuống ngang hông núi. Socrate từ phòng tắm bước ra.
Ba con của ông là Lamproclès, Sophronisque và Ménexène đã đến cùng với mấy bà
trong thân tộc. Socrate tiếp họ một chút rồi bảo các thân nhân ra ngoài hết,
chỉ chừa lại mấy đồ đệ thôi. Lúc ấy tên thủ hạ của các Thẩm phán đến bảo
Socrate hãy tự động uống thuốc độc. Tên nầy xử rất nhân từ và tỏ ra mến phục
sâu xa nhân cách của ông. Y khóc sướt mướt khi vĩnh biệt Socrate. Y vừa trở gót
thì Socrate bảo một môn sinh là Criton cho người đem độc dược đến. Criton nói:
"Thưa Thầy, mặt trời chưa lặn. Xin Thầy đừng lìa bỏ chúng con vội. Thiếu
gì tử tội khác bị ép uống độc dược còn nấn ná, đòi ăn uống và chuyện vãn với họ
hàng rất lâu". Socrate cãi lại: "Họ làm như vậy có được thêm lợi lộc
gì đâu. Phần thầy, thầy không muốn bám chặt thêm đời sống để làm trò cười cho
thiên hạ khi không còn giữ mãi nó được. Con hãy nghe lời thầy". Criton
chiều ý thầy ra lệnh cho một người bưng độc dược vào. Socrate hỏi người ấy phải
làm sao? Y bảo: "Xin ông sao lúc uống độc dược thì đi qua đi lại vài vòng
trong phòng cho đến khi hai chân nghe nặng, ông lên giường nằm thẳng cẳng ra.
Đó là thuốc gây hiệu quả". Nói xong, y trao cốc thuốc cho Socrate. Với
lòng thành kính, tin tưởng, tay cầm cốc thuốc, lòng thầm vái thần Asclépios vì
theo ông, việc dời chỗ từ bên nầy qua bên kia thế giới cần thần linh giúp đỡ
cho tốt đẹp. Socrate khấn vái xong, căn dặn các môn đồ của ông đứng gần đó,
phải bình tĩnh, không được thay đổi sắc diện. Nói xong ông lạnh lùng, từ từ đưa
cốc độc dược lên miệng uống một hơi, êm ái, hiền hòa. Lúc ấy Platon, môn đồ
xuất sắc nhất và cũng là môn đồ niên trưởng, nhìn ông uống từng hớp tử thần mà
như chết đứng, chết tê người ra. Nước mắt tuôn trào tợ hai dòng suối mà không
dám để lộ tiếng nức nở vì sợ cãi lời thầy dặn hãy bình tĩnh. Platon phải ôm mặt
khóc sợ thầy thấy. Platon tự nghĩ: Từ đây thế là hết!
Không phải mình khóc cho thầy vì một người như thầy không cần ai
khóc khi qua đời. Mà mình khóc cho chính thân phận mình. Từ phút nầy mình đã
vĩnh viễn mất đi một người cha, một người thầy, một người anh, một người bạn mà
gần như không làm sao kiếm được người thứ hai trên cõi đời nầy. Lúc thầy
Socrate bình tĩnh đón nhận cái chết như vậy, Criton như đứt ra từng đoạn ruột,
rón rén bước ra ngoài để khóc cho bớt đau khổ. Còn cạnh bên Platon là Apollodore,
ông nầy hồi nãy giờ không lúc nào là không đầm đìa giọt lệ, đến một lúc không
cầm mình được nữa, òa lên gào thét thê thảm. Lúc đó Platon cũng không làm sao
khỏi cãi lời thầy tức tưởi khóc theo Apollodore, gây thành cảnh não nề đến cực
độ. Cả một không khí tan nát lòng từng mảnh bao trùm căn phòng đằng đằng tử
khí. Chỉ một mình Socrate là yên ổn y như một bàn thạch. Thấy các môn sinh chan
hòa lệ thảm, Socrate quát lên: "Các con làm cái gì kỳ vậy? Sở dĩ thầy đuổi
hết các cô các bà ra ngoài phòng mà chỉ để các con lại cố ý tránh sự mất bình
tĩnh như vậy. Các con phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách
êm ái, thảnh thơi chứ". Nghe vậy Platon và các môn đồ khác không còn dám
gào thét nữa, nhưng vẫn sụt sùi và tê tái người ra nhìn Socrate đang đi đi lại
lại trong phòng. Đến lúc thuốc độc đã thấm, Socrate lên giường nằm. Bấy giờ mặt
trời đã khuất núi. Căn phòng tối mờ mờ.
Người trao độc dược khi nãy rờ chân Socrate, thấy đã cứng và
lạnh dần lên gần đến bụng. Hồi mới lên giường nằm, người ta đắp trên mặt ông
một chiếc khăn. Đến lúc nầy, Socrate tung khăn ra và nói với Criton: "Này
Criton! Con hãy thế thầy mà tế thần Asclépios một con gà trống. Đó là món nợ
thầy đã hứa. Con hãy trả giùm thầy". Criton thưa: "Con sẽ làm theo ý
thầy và thưa thầy, thầy còn muốn trối với chúng con điều gì nữa không?".
Lúc ấy, hơi lạnh đã lên đến tim Socrate và câu hỏi của Criton không được ông
trả lời. Socrate đang nằm yên, bỗng giẫy lên một cái rồi thở hơi cuối cùng. Các
môn đồ đứng quanh, tan nát lòng, khóc than thảm thiết còn Criton thì vuốt mặt
và vuốt miệng cho thầy.
2.- Cho đến bây giờ, các triết gia đều đồng ý là trong lịch sử
nhân loại, sau cái chết của Đức Giêsu, không có cái chết nào can đảm, vĩ đại
bằng cái chết của Socrate. Trong cuốn Phédon, Platon nói với Echécrate rằng
trong thời đại ông, Socrate là người đạo đức nhứt, thông minh nhứt và cũng
cương trực nhứt. Tại vì Nietzsche đề cao thuyết siêu nhân theo kiểu tôn thờ sức
mạnh quá lố nên chê Socrate là người không có "bản năng sống" coi cái
chết như một lý trí thuần túy. Theo Nietzsche thì Socrate là một "Quái vật". Trái lại Kant
thì tôn thờ Socrate như "lý
tưởng của lý trí". Hégel thủy tổ của biện chứng pháp xác nhận
Socrate là "triết gia
chân chính", là "Anh
hùng của nhân loại". Ai cũng công nhận là Socrate sống và thực
hiện những điều ông dạy. Nếu ai sống đúng đạo làm người được gọi là thánh thì
Socrate là thánh nhân trăm phần trăm. Theo sự mô tả của Platon hay Xénophon thì
Socrate rất xấu trai, tướng thô kệch như con bò mộng, mũi xệp, mắt bành ra, dáng
cục mịch. Song nếu bề ngoài Socrate xấu xí bao nhiêu thì tâm hồn ông tốt đẹp và
trí óc ông minh mẫn bấy nhiêu. Trọn đời ông chống đối bọn ngụy biện phá hoại
dân tộc, ông chống chính quyền ngu si thời ông bảo rằng ông đầu độc thanh niên.
Ông tỏ ra là công dân gương mẫu: khi bị cầm tù, được đồ đệ là Criton tổ chức
vượt ngục mà ông từ chối. Ông thương mến môn sinh hết lòng hết dạ, dạy dỗ họ,
xử đối với họ như cha con. Đời sống của ông là bài học cho các đồ đệ của ông.
Ông sống đơn giản, thường chỉ mặc chiếc áo choàng vải thô, đi chân không, lê
gót khắp thành phố Nhã-Điền. Tiêu ngữ "Bạn hãy biết bạn" khắc ở
đền Delphes tương truyền là của Chilon, ông lấy làm châm ngôn cho đời sống của
chính mình và của các môn sinh. Cũng như thân phụ ông là điêu khắc gia Sophrôniskos,
ông điêu khắc tâm hồn Platon và các môn đồ khác thành tác phẩm "nên
người". Cũng như thân mẫu ông là nữ hộ sản Phainaretê, ông áp dụng phương
pháp đỡ đẻ tư tưởng gọi là khích biện pháp để dạy học và chiến thắng ngụy biện.
Học trò của ông triền miên học ở ông đức tự chủ và tâm tính điều hòa. Ông vốn
là người có tính khí nóng nẩy thô bạo. Nhưng ông luôn khắc chế tính khí ấy.
Thành ra ông ôn lương điềm đạm một cách đáng phục. Ông càng tự chủ, tự khiển,
ông càng nêu cho môn đồ gương chiến thắng của tinh thần trên thú tính. Chính do
điểm đó ông là người hùng và ông tỏ ra "Người" hơn mọi người.
Cái chết kiêu dũng của ông là thí dụ hùng biện cho đời sống tự khắc của ông.
Nếu Socrate dùng tự chủ để luyện nhân cách cho học trò thì ông dùng khích biện
pháp để chống ngụy biện, chống trí thức giả tạo và xây dựng cho học trò vốn
kiến thức thực giá. Hai công việc luyện tâm và luyện trí ấy, Socrate thực hiện
cho các môn sinh bằng đời sống liêm chính, bằng tình thầy trò thân mật hơn cha
con. Có lẽ nhờ Socrate bất hạnh trong gia đình vì kết tóc xe tơ cùng một ác phụ
tên là Xanthippe, bị vợ hành khổ như đày tớ, nên ông vua coi đó là trường đào
tạo ông thành thánh, vừa y như Khổng Tử, mấy chục năm trời trước khi chết luôn
sống gần gũi, thân mật với các môn đồ. Vì đó giây phút ông ly trần, là mồ mả
nổi lên trong tâm hồn họ và xưa nay trong lịch sử nhân loại, chưa có thầy nào
chết mà trò khóc tợ như mưa sầu gió thảm như vậy.
Đăng nhận xét